Một số tác động của pháp luật về thừa kế tới hoạt động ngân hàng

0
162

Quy định chung về thừa kế liên quan đến hoạt động ngân hàng

Hiện nay, vấn đề về thừa kế di sản của khách hàng tại TCTD được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định chủ yếu mang tính hướng dẫn nghiệp vụ nội bộ ngân hàng.

Chẳng hạn, Điều 18 Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, được sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định đối với trường hợp khách hàng là cá nhân bị chết hoặc bị tuyên bố là đã chết, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải thực hiện đóng tài khoản thanh toán, và sau đó phải thông báo cho người thừa kế hợp pháp biết và thực hiện chi trả cho người được thừa kế, đại diện thừa kế (trong trường hợp không có tranh chấp) hay chi trả theo quyết định của Tòa án (trong trường hợp có tranh chấp). 

Bên cạnh đó, theo Thông tư số 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm (Thông tư 48) và Thông tư 49/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi có kỳ hạn (Thông tư 49) được NHNN ban hành vào cùng ngày 31/12/2018, thủ tục nhận thừa kế đối với tiền gửi được thực hiện theo hai hướng: (i) TCTD có thể thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tiền gửi sang cho người thừa kế (Điều 14 Thông tư 48 và Điều 12 Thông tư 49); hoặc (ii) TCTD chi trả tiền gửi trực tiếp cho người thừa kế (điểm a Khoản 4 Điều 18 Thông tư 48 và Điểm b Khoản 2 Điều 15 Thông tư 49).

Trên thực tế, xuất phát từ tính đơn giản trong thủ tục thực hiện, các TCTD thường ưu tiên phương án chi trả tiền gửi trực tiếp cho người thừa kế. Nếu người thừa kế có nhu cầu tiếp tục gửi tiền thì sẽ thực hiện mở tài khoản tiết kiệm mới đứng tên họ, trong khi đó, trong một số trường hợp, người thừa kế mong muốn được chuyển quyền sở hữu tiền gửi sang cho mình hơn bởi họ muốn được tiếp tục kỳ hạn tiền gửi để duy trì lãi suất đã thỏa thuận hoặc hưởng các ưu đãi khác về lãi suất tiền gửi.

Tuy nhiên, quy định tại Thông tư 48 và Thông tư 49 không trao quyền lựa chọn cho người thừa kế. Do đó, trong trường hợp này người thừa kế dường như vẫn phải theo hướng dẫn nội bộ của các TCTD.

Nhìn chung, trình tự, thủ tục thừa kế di sản của khách hàng tại các TCTD vẫn chủ yếu được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), một số quy định pháp luật về công chứng, chứng thực và quy định nội bộ của các TCTD.

BLDS 2015 quy định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp hoặc xảy ra các sự kiện làm cho việc phân chia di sản theo di chúc không thể thực hiện được (như người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, người được chỉ định trong di chúc không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản)[1], và khi đó, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Còn thừa kế theo di chúc được hiểu là trường hợp người chết để lại di chúc hợp pháp[2] và việc phân chia di sản thừa kế, đối tượng hưởng di sản thừa kế sẽ được xác định theo di chúc, trừ trường hợp xảy ra sự kiện làm cho việc phân chia di sản theo di chúc không thể thực hiện được như nêu trên.

Ngoài ra, trong một số trường hợp có thể vừa thực hiện phân chia di sản theo di chúc và vừa thực hiện phân chia di sản theo pháp luật. Chẳng hạn, trường hợp phân chia di sản theo di chúc nhưng có người trong số những người thừa kế từ chối nhận di sản, bị tước quyền nhận di sản hoặc khi người chết để lại nhiều di sản nhưng có di sản không được định doạt trong di chúc, thì phần di sản đó sẽ được phân chia theo pháp luật, còn các tài sản còn lại thực hiện phân chia theo di chúc.

Tuy nhiên, trong trường hợp một người được quyền hưởng thừa kế di sản của người chết để lại nhưng di sản đó đang được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, như được cầm cố, thế chấp tại TCTD, thì việc thừa kế sẽ gắn liền với việc thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 615 của BLDS 2015  như sau:

“Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân”.

Từ điều luật này có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, theo quy định trên, nghĩa vụ mà người thừa kế phải có trách nhiệm thực hiện là “nghĩa vụ tài sản” của người chết để lại. Cần hiểu thế nào là nghĩa vụ tài sản? Mặc dù BLDS 2015 không đưa ra một khái niệm rõ ràng về nghĩa vụ tài sản, nhưng có thể tham khảo khái niệm về nghĩa vụ nói chung nêu tại Điều 274 của bộ luật này, theo đó “nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Ngoài ra, Điều 658 của BLDS 2015 quy định các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán bao gồm: (i) chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng, (ii) tiền cấp dưỡng còn thiếu, (iii) chi phí cho việc bảo quản di sản, (iv) tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ, (v) tiền công lao động, (vi) tiền bồi thường thiệt hại, (vii) thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước, (viii) các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân, (ix) tiền phạt, và (x) các chi phí khác.

Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì nghĩa vụ tài sản là nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền và một cách hẹp hơn là nghĩa vụ có thể được thực hiện thông qua đối tượng là tài sản của người chết để lại hoặc giá trị của tài sản đó. Trong đó, nghĩa vụ thường gặp nhất khi người chết trước đó đã có quan hệ tín dụng với TCTD là nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của người chết và/hoặc nghĩa vụ là bên bảo đảm đối với khoản tín dụng được cấp tại TCTD đó.

Thứ hai, nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ tài sản theo quy định tại Điều 615 của BLDS 2015 không phải là thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại mà người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ đó trong phạm vi di sản được hưởng hay nói cách khác là trong phạm vi giá trị của di sản được hưởng. Do đó, trường hợp di sản của người chết để lại không đủ để thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền yêu cầu, như các TCTD, không thể yêu cầu người thừa kế tiếp tục thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu hoặc yêu cầu người thừa kế dùng tài sản riêng của mình để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại.

Cần lưu ý Điều 620 của BLDS 2015 cũng trao cho người thừa kế được quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại thông qua việc từ chối nhận di sản trước thời điểm phân chia di sản, trừ trường hợp từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Trong trường hợp này người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản (Điều 59 Luật Công chứng  số 53/2014/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2014, được sửa đổi, bổ sung năm 2018 (Luật Công chứng)) hoặc chứng thực văn bản từ chối nhận di sản tại UBND cấp xã (điểm g khoản 2 Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (Nghị định 23)). 

Thứ ba, TCTD được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại thông qua người quản lý di sản[3] khi chưa chia di sản thừa kế.

Văn bản về thừa kế

BLDS 2015 quy định kể từ thời điểm mở thừa kế (là thời điểm người để lại di sản chết hoặc thời điểm Tòa án tuyên bố là đã chết), người thừa kế bắt đầu có quyền thừa kế di sản (các Điều 609, 611 và 614 của BLDS 2015).

Như vậy, thời điểm bắt đầu trình tự, thủ tục nhận di sản thừa kế là thời điểm người để lại di sản chết hoặc thời điểm được Tòa án tuyên bố là đã chết. Tuy nhiên, với vai trò là đạo luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS 2015 không đưa ra một hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục nhận di sản thừa kế mà các trình tự và thủ này được quy định trong các văn bản khác như Luật Công chứng và Nghị định 23.

Bên cạnh văn bản từ chối nhận di sản, Luật Công chứng và Nghị định 23 quy định về việc xác lập hai loại văn bản thừa kế, là: (i) văn bản thỏa thuận phân chia di sản; hoặc (ii) văn bản khai nhận di sản tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã (đối với di sản là động sản, quyền sử dụng đất và nhà ở) và tại Phòng Tư pháp cấp huyện (đối với di sản là động sản) [4]. 

Đối với văn bản thỏa thuận phân chia di sản, khoản 1 Điều 57 của Luật Công chứng quy định “những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác”. Phụ lục mẫu lời chứng, mẫu sổ chứng thực của Nghị định 23 quy định theo hướng văn bản thỏa thuận phân chia di sản được lập bởi từ hai người thừa kế trở lên nhưng không nêu rõ sẽ được áp dụng trong trường hợp nào.

Đối với văn bản khai nhận di sản thừa kế, tại Khoản 1 Điều 58 của Luật Công chứng quy định “người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công chứng văn bản khai nhận di sản”. Tuy nhiên theo phần Phụ lục mẫu lời chứng, mẫu sổ chứng thực của Nghị định 23 lại đi theo hướng nếu chỉ có duy nhất một người thừa kế thì sẽ thực hiện xác lập văn bản khai nhận di sản thừa kế. Do đó, dễ thấy có sự không đồng nhất trong cách tiếp cận của hai văn bản này. 

Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính được sửa đổi, bổ sung năm 2015 và năm 2017 quy định hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất [5] phải có hợp đồng, văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và “trường hợp người thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là người duy nhất thì phải có đơn đề nghị được đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của người thừa kế”.

Từ các phân tích ở trên có thể thấy hợp đồng, văn bản hợp lệ về thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất để thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thừa kế có thể là:

– Di chúc đã xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người;

– Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế trong trường hợp có từ hai người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người;

– Văn bản khai nhận di sản thừa kế trong trường hợp chỉ có một người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó; 

– Văn bản từ chối nhận di sản.

Tuy nhiên, trên thực tế trong trường hợp thừa kế bất động sản mà có một người thừa kế duy nhất theo di chúc hoặc nhiều người thừa kế theo di chúc và di chúc đã phân định rõ phần được hưởng của từng người thừa kế thì các bên vẫn thực hiện công chứng văn bản khai nhận di sản thừa kế để hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Lý do là theo pháp luật công chứng, tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản [6] và việc niêm yết này tạo tâm lý yên tâm hơn cho các cơ quan đăng ký đất đai khi làm thủ tục đăng ký biến động trong trường hợp thừa kế, nhất là trong trường hợp có thể có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc [7].

Bên vay, bên bảo đảm chết

Điều 615 của BLDS 2015 quy định quyền của TCTD được yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại sau khi đã chia di sản. Tuy vậy, một khó khăn đặt ra cho các TCTD là làm thế nào để xác định chính xác người thừa kế hợp pháp của khách hàng đã chết, để từ đó xác định ai sẽ kế thừa nghĩa vụ trả nợ cho TCTD hay nghĩa vụ của bên bảo đảm đối với TCTD.

Mặc dù BLDS 2015 đã có hướng dẫn khá chi tiết về việc xác định người thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, nhưng TCTD không có chức năng hay thẩm quyền để xác định được người thừa kế hợp pháp mà phải yêu cầu các bên liên quan phải thực hiện thủ tục liên quan về thừa kế theo quy định trước, và từ đó mới xác định được những ai có đầy đủ tư cách thừa kế di sản của khách hàng đã chết.

Cần lưu ý khi tài sản đang được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại TCTD, đặc biệt đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất,  trong hồ sơ thực hiện thủ tục thừa kế thường phải có văn bản chấp thuận của TCTD cho các bên liên quan thực hiện thủ tục nhận di sản thừa kế và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu di sản thừa kế đó mà TCTD đang nắm giữ theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm đã được ký giữa TCTD với khách hàng.

Trong thực tế, TCTD thường chờ các bên thực hiện xong thủ tục nhận di sản thừa kế thì mới yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, một phần bởi vì không phải trường hợp nào cũng dễ dàng xác định được khối tài sản của khách hàng đã chết để lại và người quản lý di sản. Điều này dẫn đến hệ quả là khoản nợ có thể bị rơi vào nhóm nợ xấu. Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 615 của BLDS 2015, việc thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại không phải là việc thực hiện nghĩa vụ liên đới mà là nghĩa vụ riêng rẽ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [8].

Do đó, sau khi di sản đã được chia, TCTD phải tách bạch phần nghĩa vụ của từng người thừa kế (trong trường hợp có nhiều người thừa kế) để yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ trả nợ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây sẽ là một rủi ro đáng lưu ý đối với TCTD khi mà chỉ cần một trong số các người thừa kế không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ phần nghĩa vụ của mình thì khoản nợ đó sẽ lập tức trở thành nợ quá hạn.

Một vướng mắc khác cần lưu ý trong trường hợp trên là sau khi thực hiện thủ tục nhận di sản thừa kế, tài sản bảo đảm sẽ được chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng sang cho người thừa kế trong khi trên giấy tờ, hợp đồng vay hay hợp đồng bảo đảm vẫn đứng tên của khách hàng đã chết là bên vay hay bên bảo đảm. Vậy giữa TCTD và các người thừa kế có bắt buộc phải sửa đổi hợp đồng vay, hợp đồng bảo đảm hay ký thỏa thuận về việc kế thừa nghĩa vụ (từ khách hàng đã chết sang cho người thừa kế) hay không? Có thể có hai luồng quan điểm về vấn đề này.

Có thể lập luận rằng TCTD và người thừa kế không phải thực hiện sửa đổi hợp đồng hay ký thỏa thuận kế thừa nghĩa vụ như trên, bởi vì khoản 1 Điều 615 của BLDS 2015 quy định việc kế thừa nghĩa vụ của người chết để lại là một nghĩa vụ đương nhiên của người thừa kế. Nói cách khác đây là việc kế thừa nghĩa vụ theo luật định. Hơn nữa, BLDS 2015 cũng không có quy định bắt buộc các bên phải thực hiện sửa đổi hợp đồng vay, hợp đồng bảo đảm hay ký thỏa thuận nào khác trong trường hợp này.

Tuy nhiên cũng có thể lập theo chiều hướng ngược lại rằng TCTD và các người thừa kế vẫn phải thực hiện sửa đổi hợp đồng hay ký thỏa thuận về việc kế thừa nghĩa vụ, bởi vì về bản chất, quan hệ vay vốn hay quan hệ bảo đảm là quan hệ về hợp đồng dân sự, do đó, khi có sự thay đổi chủ thể thực hiện hợp đồng, các bên phải thực hiện sửa đổi hợp đồng hoặc ký thỏa thuận về việc kế thừa nghĩa vụ. Bên cạnh đó, đối với trường hợp có nhiều người thừa kế, việc sửa đổi hợp đồng vay, hợp đồng bảo đảm hay ký thỏa thuận kế thừa nghĩa vụ là cần thiết nhằm mục đích xác định rõ phần nghĩa vụ trả nợ hay nghĩa vụ bảo đảm của từng người thừa kế hoặc thỏa thuận những người thừa kế có cùng trách nhiệm liên đới trả nợ hay bảo đảm như phân tích trên đây. 

Một điểm cần lưu ý trong trường hợp này là TCTD không nên ký với người thừa kế bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, bởi vì theo Điều 421 của BLDS 2015, việc sửa đổi hợp đồng phải được thực hiện bởi các bên trong hợp đồng ban đầu, chứ không phải là một bên khác như người thừa kế. TCTD và người thừa kế nên xác lập thỏa thuận về việc tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ còn lại của người chết theo hợp đồng đã ký. Thỏa thuận này hoàn toàn hợp pháp theo quy định hiện hành.

Cách tiếp cận thứ hai nêu trên không những giúp TCTD hạn chế phần nào các rủi ro có thể phát sinh mà còn giảm thiểu được các tranh chấp không đáng có đối với khách hàng là người thừa kế, nhất là khi nghĩa vụ của bên thừa kế được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Trong trường hợp này các bên có thể thực hiện thủ tục đăng ký biến động do thay đổi bên bảo đảm quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 2017 về đăng ký biện pháp bảo đảm (Nghị định 102).

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại thường ít được các TCTD để ý đến mặc dù vấn đề này tiềm ẩn không ít rủi ro. Khoản 3 Điều 623 của BLDS 2015 quy định “thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Điều luật này không quy định rõ đây là loại thời hiệu nào thuộc bốn loại thời hiệu quy định tại Điều 150 của BLDS 2015 [9].

Tuy nhiên, nếu đọc kết hợp điều luật này với khoản 1 và khoản 2 của Điều 623 BLDS 2015, có thể hiểu thời hiệu này theo hai cách, đó là (i) đây là thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, theo đó sau 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu không yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ trả nợ do người chết để lại, thì TCTD sẽ mất quyền yêu cầu này; hoặc (ii) đây là thời hiệu khởi kiện, tức là sau 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu không khởi kiện tại Tòa án, TCTD sẽ mất quyền khởi kiện đối với người thừa kế.

Cả hai trường hợp nêu trên đều đặt TCTD trước rủi ro mất vốn. Trường hợp khá phổ biến là khoản vay do vợ chồng cùng đứng tên là bên vay và bên bảo đảm, và khi một bên vợ hoặc chồng chết nhưng không thông báo cho TCTD biết, và những người thừa kế cũng không có nhu cầu thực hiện thủ tục phân chia di sản thừa kế đồng thời vẫn thực hiện việc trả nợ đều đặn.

Nếu trong thời hạn 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, TCTD không yêu cầu hay khởi kiện người thừa kế để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại, thì căn cứ theo khoản 3 Điều 623 nêu trên, TCTD sẽ mất quyền yêu cầu hay quyền khởi kiện này. Như vậy, khi xảy ra trường hợp phải xử lý TSBĐ hay thu hồi nợ vay, rất có khả năng TCTD sẽ mất quyền yêu cầu xử lý phần di sản trong khối tài sản của một bên vợ hoặc chồng bị chết để lại.

Tuy vậy, để hạn chế rủi ro, TCTD có thể ký thỏa thuận về việc tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của người chết để lại như phân tích trên, và trong trường hợp này nếu trong quá trình thực hiện thỏa thuận này mà những người thừa kế vi phạm nghĩa vụ thì TCTD có thể lập luận đây là trường hợp vi phạm hợp đồng để thực hiện áp dụng thời hiệu khởi kiện về hợp đồng được quy định tại Điều 429 của BLDS 2015 [10]. 

Nếu nhìn xa hơn, BLDS 2015 nên quy định một thời hiệu dài hơn trong trường hợp này và nên quy định rõ thời điểm bắt đầu thời hiệu này theo hướng “thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết người để lại di sản đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết”.

Nhận thế chấp bất động sản là tài sản thừa kế

Việc nhận thế chấp bất động sản có nguồn gốc từ chia thừa kế trong thực tế cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với TCTD, nhất là trong bối cảnh quy định pháp luật có liên quan vẫn chưa thực sự rõ ràng.

Thứ nhất, liên quan đến thời điểm người thừa kế được quyền thực hiện thế chấp di sản thừa kế là quyền sử dụng đất cho TCTD, khoản 1 Điều 168 của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11 năm 2013 được sửa đổi, bổ sung năm 2018 (Luật Đất đai) quy định “người sử dụng đất được thực hiện quyền […] thế chấp quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất […]; trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Điểm c khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai cũng quy định giấy tờ hợp pháp về thừa kế là loại giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận). 

Về lý thuyết, theo quy định nêu trên thì ngay khi có giấy tờ hợp pháp về thừa kế như di chúc, văn bản thỏa thuận phân chia di sản, hay văn bản khai nhận di sản, người thừa kế đã có quyền được thế chấp di sản là quyền sử dụng đất cho TCTD mà không cần phải đợi đến khi được cấp Giấy chứng nhận.

Tuy nhiên, nếu TCTD đồng ý nhận thế chấp ở thời điểm người thừa kế chưa được cấp Giấy chứng nhận thì nhiều khả năng sẽ gặp phải một số rủi ro nhất định. Chẳng hạn, nếu trong số những người thừa kế có người thuộc trường hợp là người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam, theo khoản 3 và khoản 4 Điều 186 Luật Đất đai thì những người này sẽ không được xem xét để cấp Giấy chứng nhận và khi đó việc thế chấp quyền sử dụng đất hay nhà ở của những người này cũng không thể thực hiện được. 

Hơn nữa, khi chưa có Giấy chứng nhận thì cũng không thể đăng ký được thế chấp quyền sử dụng đất (do đó hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất không có hiệu lực theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai) vì khoản 3 Điều 39 Nghị định số 102 đặt ra yêu cầu hồ sơ đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận. 

Chính vì các lý do này mà trong thực tế các TCTD thường từ chối nhận thế chấp nếu quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ phân chia di sản thừa kế chưa được cấp Giấy chứng nhận.

Thứ hai, sau khi người thừa kế di sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu TCTD nhận thế chấp tài sản này một cách hợp pháp, và hợp đồng thế chấp được công chứng hay chứng thực và TCTD đăng ký biện pháp bảo đảm hợp lệ, nhưng sau đó phát sinh vấn đề liên quan đến việc thừa kế của bên thế chấp thì có ảnh hưởng đến hợp đồng thế chấp đã xác lập hay không?

Khoản 2 Điều 133 BLDS quy định “trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Công văn số 64/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 4 năm 2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính coi “thế chấp tài sản là một giao dịch chuyển giao tài sản có điều kiện; để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận thế chấp ngay tình thì phải hiểu quy định “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự được áp dụng cả trong trường hợp giao dịch về thế chấp tài sản”.

Cách giải thích này của Tòa án nhân dân tối cao dù chưa thực sự phù hợp với câu chữ của BLDS 201513 nhưng đặc biệt có lợi cho các TCTD là bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, công văn này mới chỉ dừng lại ở việc kết luận “trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu”.

Nói cách khác, phạm vi áp dụng của công văn này mới chỉ dừng lại ở giao dịch chuyển nhượng, còn đối với trường hợp giao dịch về thừa kế bị vô hiệu thì công văn này vẫn chưa giải quyết hậu quả của việc vô hiệu này đối với hợp đồng thế chấp xác lập với TCTD. Do đó, vẫn còn khoảng trống lớn về mặt pháp lý trong trường hợp này và tiềm ẩn rủi ro nhất định đối với TCTD.

Cũng cần lưu ý là bản chất của thủ tục phân chia di sản thừa kế là được thực hiện chủ yếu trên cơ sở tự kê khai, thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của những người thừa kế và các bên liên quan. Do đó, có thể phát sinh các vấn đề về người thừa kế, quyền hưởng thừa kế và di sản thừa kế và hệ quả là các vấn đề đó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của bên bảo đảm là người thừa kế.

Thêm vào đó, khoản 2 Điều 623 của BLDS 2015 quy định “thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Điều đó có nghĩa là, nếu xảy ra tranh chấp, vẫn có nguy cơ văn bản về thừa kế bị hủy hoặc bị tuyên vô hiệu trong thời hiệu 10 năm này, dẫn đến giao dịch thế chấp của các TCTD có thể bị tuyên vô hiệu. 

Có thể thấy, pháp luật về thừa kế là một lĩnh vực khá phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các TCTD. Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực này là nhu cầu từ thực tế để góp phần khơi thông tín dụng. Trong lúc chờ các quy định mới, các TCTD cũng cần xây dựng các quy định nội bộ một cách cẩn trọng và chặt chẽ để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình là bên cho vay hay bên nhận bảo đảm.

Tài liệu tham khảo

1. Điều 649 và Điều 650 của BLDS 2015.

2. Xem thêm các điều kiện của di chúc hợp pháp tại Điều 630 BLDS 2015.

3. Về người quản lý di sản, xem Điều 616, Điều 617 và Điều 618 BLDS 2015.

4. Điều 57 và Điều 58 Luật Công chứng năm 2014 và Điều 5 Nghị định 23. Rất tiếc là các quy định này bỏ sót trường hợp di sản thừa kế là tài sản gắn liền với đất nhưng không phải là nhà ở như các nhà xưởng hay công trình xây dựng khác.

5. Thực chất ở đây phải là thừa kế tài sản gắn liền với đất chứ không phải là thừa kế quyền sở hữu tài sản gắn liến với đất.

6. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, “việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản phải được niêm yết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Việc niêm yết do tổ chức hành nghề công chứng thực hiện tại trụ sở của Ủy ban nhân cấp xã nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản; trường hợp không xác định được nơi thường trú cuối cùng thì niêm yết tại nơi tạm trú có thời hạn cuối cùng của người đó. Trường hợp di sản gồm cả bất động sản và động sản hoặc di sản chỉ gồm có bất động sản thì việc niêm yết được thực hiện theo quy định tại Khoản này và tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản”.

7. Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

8. Về sự khác nhau trong việc thực hiện hai loại nghĩa vụ này, xem Điều 287 và 288 của BLDS 2015.

9. Bao gồm thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự.

10. Về thời hiệu khởi kiện, xem thêm Bùi Đức Giang, “Quy định mới về thời hiệu khởi kiện và nguy cơ gia tăng nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng, số 16, tháng 8/2016, trang 26-27.

11. Xem thêm Bùi Đức Giang, “Mong manh cơ chế bảo vệ bên thứ ba ngay tình”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn (1327), số 21-2016, ngày 19 tháng 5 năm 2016, trang 68-69.

Đánh giá post
Bài viết có tài trợ
Bài trướcCách tạo trang web WordPress an toàn
Bài tiếp theoĐại gia địa ốc ngược dòng với căn hộ cao cấp vùng ven

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây