Kênh huy động vốn quan trọng của NSNN, góp phần tái cơ cấu nợ công
Thị trường TPCP chuyên biệt chính thức khai trương và đi vào hoạt động ngày 24/09/2009. Theo đó, toàn bộ hàng hóa trên thị trường TPCP chuyên biệt đã được phát hành qua đấu thầu tập trung từ năm 2006 và niêm yết tập trung tại HNX từ năm 2008. Các trái phiếu phát hành qua đấu thầu đều được niêm yết ngay và giao dịch trên Hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt, phù hợp với những đặc thù của TPCP.
Trên thị trường sơ cấp, trong vòng 13 năm, thông qua hoạt động đấu thấu TPCP tại HNX, 2,7 triệu tỷ đồng vốn đã được huy động cho NSNN để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Khối lượng vốn huy động trong nước từ phát hành TPCP tăng, giúp giảm dần tỷ lệ nợ vay nước ngoài trong tổng mức vay của Chính phủ, cụ thể: nợ vay nước ngoài đã giảm từ 73,6% (năm 2010) xuống mức 63,4% (năm 2015) và 34,8% năm 2021.
Đáng chú ý, lãi suất huy động vốn trên thị trường TPCP đã giảm đáng kể, giúp tiết kiệm cho NSNN hàng nghìn tỷ đồng tiền trả lãi và hỗ trợ tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Giai đoạn năm 2009-2010, lãi suất phát hành kỳ hạn 5 năm ở mức 10-11%/năm, kỳ hạn 10 năm ở mức 9-10%/năm thì sau gần 10 năm, lãi suất phát hành cuối năm 2019 cho kỳ hạn 5 năm là 2%/năm; kỳ hạn 10 năm là 3,48%/năm; đến hết năm 2021, lãi suất tại kỳ hạn 5 năm chỉ còn còn 0,67%/năm, kỳ hạn 10 năm còn 2,08%/năm. Riêng trong 08 tháng đầu năm 2022, cùng với biến động từ thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế, mức lãi suất huy động TPCP có xu hướng tăng chung tại tất cả các kỳ hạn, trong đó kỳ hạn 10 năm và 15 năm tăng khoảng 0,8%/năm.
Về kỳ hạn trái phiếu, nếu giai đoạn từ năm 2009 đến trước năm 2014, thị trường TPCP chỉ gồm sản phẩm có kỳ hạn ngắn (2, 3, 5 năm và rất ít trái phiếu 10 năm), thì từ năm 2014, TPCP kỳ hạn dài bắt đầu được ưu tiên phát hành, nhằm kéo dài kỳ hạn bình quân của danh mục nợ TPCP. Đặc biệt, từ năm 2017 đến nay, thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững và Nghị quyết số 25/2016/NQ-QH ngày 09/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016- 2020, toàn bộ số TPCP phát hành trên thị trường đều có kỳ hạn từ 5 năm đến 30 năm. Theo đó, tỷ trọng trái phiếu dài hạn trong tổng khối lượng phát hành tăng đều hàng năm. Năm 2017, TPCP có kỳ hạn từ 10 năm trở lên chiếm khoảng 70% tổng khối lượng phát hành, tỷ trọng này đã tăng lên mức 90,3% vào năm 2018 và 93% năm 2019, 95,2% năm 2020, 91,7% năm 2021.
Riêng trong 8 tháng đầu năm 2022, 100% trái phiếu huy động có kỳ hạn trên 10 năm, trong đó kỳ hạn 20 năm và 30 năm chiếm 2,17% và 8,25% tổng giá trị huy động, 15 năm chiếm 39,45% và 10 năm là 50,13%. Việc kỳ hạn phát hành bình quân TPCP được kéo dài giúp giãn áp lực trả nợ, cắt đỉnh nợ cho NSNN, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
Kênh đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư
Sản phẩm và kỳ hạn phát hành TPCP liên tục được đa dạng hóa trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, ngày càng đáp ứng nhu cầu đầu tư đa dạng của NĐT. Trên thị trường sơ cấp, không chỉ có sản phẩm cơ bản là trái phiếu trả lãi định kỳ (standard/long/ short coupon), mà còn có các sản phẩm trái phiếu không trả lãi định kỳ, đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành từ 3 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm, quy mô niêm yết đã tăng đáng kể so với những năm đầu thành lập thị trường.
HNX đã cải tiến mô hình tổ chức thị trường và hệ thống giao dịch công cụ nợ phù hợp với tính chất giao dịch thỏa thuận, bảo đảm chế độ báo cáo giao dịch kịp thời, chính xác để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn, các quy định pháp lý cũng đã được ban hành đồng thời với việc phát triển hệ thống. Hiện nay, trên thị trường thứ cấp đã hình thành 4 công cụ giao dịch trái phiếu, gồm giao dịch mua bán thông thường, giao dịch mua bán lại, giao dịch bán kết hợp mua lại và giao dịch vay và cho vay. Các nhà tạo lập thị trường đã được quy định thực hiện nghĩa vụ chào giá hai chiều (giá mua, giá bán) đối với các mã TPCP tiêu chuẩn, nhằm tạo thanh khoản; tăng cường trách nhiệm của thành viên thị trường thứ cấp trong công tác báo cáo giao dịch.
Do đó, giao dịch TPCP không ngừng tăng về quy mô và độ sâu, tiệm cận với các nước có thị trường TPCP phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tại thời điểm 31/8/2022, quy mô niêm yết thị trường TPCP tại HNX đạt 1.570.417 tỷ đồng, tương đương 19,43% GDP năm 2021, tăng 9,8 lần so với năm 2009. Khối lượng giao dịch trái phiếu bình quân hiện nay đạt khoảng 9.000-9.500 tỷ đồng/ phiên, tăng mạnh so với mức dưới 1.000 tỷ đồng/phiên giai đoạn 2009-2011.
Cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường TPCP ngày càng được cải thiện
Đến nay, cơ cấu NĐT trên thị trường TPCP ngày càng được cải thiện theo hướng giảm tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại (NHTM), tăng tỷ lệ nắm giữ của các tổ chức bảo hiểm và các tổ chức khác.
Trong giai đoạn 2011-2015, khối các NHTM nắm giữ khoảng 80% khối lượng TPCP trên thị trường, khối bảo hiểm và các công ty tài chính, quỹ đầu tư tài chính khác chỉ chiếm khoảng 20%. Tuy nhiên, từ năm 2016, tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NHTM đang có xu hướng giảm dần. Cụ thể, số liệu thống kê cho thấy, năm 2016, tỷ lệ nắm giữ TPCP của khối các NHTM đã giảm xuống còn 55,5%, trong khi khối bảo hiểm và các công ty tài chính, quỹ đầu tư tài chính chiếm 44,5%. Tính đến cuối tháng 6/2022, tỷ lệ nắm giữ TPCP của khối các NHTM tiếp tục giảm xuống chỉ còn 40,5% trong khi tỷ lệ nắm giữ TPCP của khối bảo hiểm và các công ty tài chính, quỹ đầu tư tăng lên đến 59,5%.
Sự chuyển dịch cơ cấu NĐT như trên góp phần giúp thị trường trái phiếu ổn định, giảm thiểu tác động của các biến động ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Theo HNX, có được kết quả như vậy là nhờ từ năm 2016 đến nay, Bộ Tài chính tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường, đổi mới hoạt động đầu tư của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các giải pháp thu hút sự tham gia của các NĐT nước ngoài dài hạn trên thị trường trái phiếu…, cơ sở NĐT TPCP càng được cải thiện theo hướng bền vững hơn.
Chú trọng phát triển hệ thống chỉ số, chỉ báo, hạ tầng công nghệ
Trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường TPCP, HNX luôn chú trọng phát triển về hạ tầng, công nghệ phục vụ thị trường. Hệ thống đấu thầu, hệ thống giao dịch liên tục được HNX đầu tư, nâng cấp theo hướng bám sát nhu cầu và hỗ trợ tốt cho các hoạt động đa dạng của thị trường.
Trong đó, Hệ thống đấu thầu điện tử trực tuyến (E.ABS), Hệ thống Giao dịch công cụ nợ (bao gồm: Hệ thống giao dịch từ xa BTS, hệ thống giao dịch trực tuyến E-BTS trên nền tảng Internet hiện đại và hệ thống giao dịch mua lại có kỳ hạn TPCP Kho bạc Nhà nước) đã đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin và giao dịch ngày càng phát triển của các thành viên thị trường và NĐT, giúp các NĐT và thành viên thị trường ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn, tiết kiệm đáng kể chi phí và thời gian giao dịch.
Đặc biệt, HNX đã xây dựng thành công hệ thống chỉ báo thị trường để tạo điều kiện thuận lợi nhất giao dịch cho các NĐT và thành viên thị trường, là cơ sở để NĐT tham chiếu, định giá các loại trái phiếu khác trên thị trường. Cụ thể, xây dựng và công bố Đường cong lợi suất (Yield Curve) vào tháng 3/2013 và Bộ chỉ số trái phiếu (Bond indices) vào tháng 01/2015. Đến nay, hai hệ thống chỉ báo thị trường này đều phát huy vai trò tích cực trong việc định lãi suất tham chiếu và định giá trái phiếu, giúp cho NĐT và thành viên thị trường thuận lợi hơn trong việc giao dịch trên thị trường.
Mục tiêu phát triển thị trường trong những năm tới
Thị trường TPCP là một cấu phần quan trọng của TTCK, trong giai đoạn tới, HNX tiếp tục bám sát định hướng phát triển của TTCK của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và phối hợp với các bên liên quan để thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu cả về quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm, đảm bảo thị trường hoạt động công khai, minh bạch và hiệu quả, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế…. Theo đó, HNX sẽ tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu mới, phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu của NĐT như trái phiếu xanh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có gốc, lãi được giao dịch tách biệt (strip bond), trái phiếu gắn với chỉ số lạm phát…
Hai là, tăng quy mô các mã trái phiếu và công bố các mã trái phiếu chuẩn trên thị trường.
Ba là, đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành. Trong đó, tập trung phát hành trái phiếu có kỳ hạn dài trên 5 năm để tăng tính bền vững của danh mục nợ TPCP, đồng thời linh hoạt phát hành các kỳ hạn ngắn (TPCP kỳ hạn dưới 3 năm), nhằm tạo đường cong lãi suất tham chiếu trên thị trường với đầy đủ các kỳ hạn.
Bốn là, triển khai hoàn thiện hệ thống đấu thầu hoán đổi, mua lại TPCP hỗ trợ cho các nghiệp vụ hoán đổi, mua lại để tái cơ cấu danh mục nợ TPCP, nhằm kéo dài kỳ hạn còn lại và giảm đỉnh nợ, giãn áp lực trả nợ cho NSNN.
Năm là, tăng cường vai trò của nhà tạo lập thị trường TPCP trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Triển khai phát hành TPCP hỗ trợ thanh khoản cho nhà tạo lập thị trường, phấn đấu nâng cao tính thanh khoản của thị trường thứ cấp.
Sáu là, đẩy mạnh phát triển cơ sở NĐT, trong đó có việc thúc đẩy hình thành và phát triển các NĐT dài hạn, tạo cầu bền vững cho thị trường, như quỹ hưu trí tự nguyện; quỹ bảo hiểm liên kết; hoạt động đầu tư vào trái phiếu của các công ty bảo hiểm; thu hút sự tham gia của NĐT nước ngoài, các định chế đầu tư chuyên nghiệp trên thế giới tham gia đầu tư vào TPCP Việt Nam nói chung, TPCP xanh nói riêng.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 9/2022