Hệ thống an sinh xã hội ở một số quốc gia
An sinh xã hội (ASXH) là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy, để duy trì ổn định kinh tế – xã hội, các trên thế giới đã có nhiều chính sách và không ngừng cải cách hệ thống ASXH nhằm gia tăng quyền tiếp cận ASXH của mỗi người dân. Cụ thể như:
Hệ thống ASXH của Đức:
Được hình thành từ thế kỷ XIX với bốn loại bảo hiểm cơ bản là: Bảo hiểm y tế (BHYT) (1883); Bảo hiểm tai nạn (1884); Bảo hiểm hưu trí (BHHT) (1889); bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) (1927). Từ năm 1994, Đức thực hiện đạo luật về bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và loại bảo hiểm này trở thành một trong những bộ phận cơ bản của hệ thống BHXH Đức.
Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa là tất yếu khách quan và cơ hội lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế, cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân lực, việc làm, thị trường lao động khu vực và thế giới… Trong bối cảnh đó, quá trình di dân, di chuyển lao động và di chuyển thể nhân theo xu hướng từ nông thôn ra thành thị và hướng ra thị trường quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều vấn đề trong chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Đặc biệt, Đức lấy hệ thống BHXH làm nòng cốt để thực hiện chính sách an sinh cho mọi người dân. Hệ thống pháp luật BHXH ở Đức thực hiện trên cơ sở “hợp đồng giữa các thế hệ”, thanh toán bảo hiểm trên nguyên tắc phụ thuộc, trong đó thế hệ lao động trẻ đóng những khoản tài chính để cung cấp BHHT cho thế hệ già. Nghĩa là hoạt động của hệ thống này chủ yếu được dựa trên sự đóng góp tài chính của 3 bên (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước).
Tuy nhiên, do những áp lực lớn về cơ cấu tuổi thọ dân số, cũng như gánh nặng hưu trí, đến năm 2001, Chính phủ Đức đã ban hành Đạo luật cải cách hưu trí mới nhằm ổn định các tỷ lệ đóng góp trong Quỹ Hưu trí. Đạo luật này phần nào giúp giảm áp lực lớn về cơ cấu tuổi thọ dân số, cũng như gánh nặng hưu trí.
Đạo luật luật cải cách hưu trí năm 2001 đặt mục tiêu, gia tăng tỷ lệ đóng góp trong hệ thống hưu trí công cộng lên mức 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này, Đức phải giảm dần lợi ích hưu trí ở mức từ 70% thu nhập trung bình vào năm 2000 xuống 67% vào năm 2030.
Năm 2004, Đức tiếp tục thực hiện cải cách hưu trí với phương châm mang lại sự ổn định về tài chính cho hệ thống BHXH. Cụ thể: Tăng độ tuổi nghỉ hưu chính thức từ 65 tuổi lên 67 tuổi vào năm 2035 và tiếp tục khẳng định tỷ lệ đóng góp vào hệ thống hưu trí công cộng ở mức 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 2030.
Hệ thống ASXH của Pháp:
Xu hướng cải cách ASXH Pháp tập trung phát triển hệ thống bảo hiểm sức khỏe toàn diện. Được hình thành từ năm 1945, nhưng đến cuối thập kỷ 1990 vấn đề an sinh dành cho người về hưu mới được Chính phủ Pháp chú trọng. Đến năm 2020 Pháp có Luật Quỹ ASXH.
Các chương trình ASXH Pháp gồm: BHYT; BHHT và trợ cấp tuổi già; bảo hiểm thương tật khi làm việc; BHTN; Trợ cấp gia đình… Mỗi chương trình này đều có luật riêng điều chỉnh. Ngoài các chương trình trên, Pháp tiếp tục kiên trì chính sách hỗ trợ chăm sóc trẻ em trước độ tuổi đến trường, trong đó phụ nữ được hưởng mức trợ cấp an sinh rất cao trong thời kỳ có con nhỏ.
Hệ thống ASXH của Thuỵ Điển:
Xuất hiện từ những năm 1930, mô hình ASXH Thuỵ Điển hoạt động chủ yếu dựa vào thuế và sự đóng góp, đây là mô hình ASXH thân thiện với việc làm, nghĩa là đảm bảo việc làm cho tất cả mọi người. Vào năm 1999, Chính phủ Thụy Điển đã thực hiện các Chiến lược hiện đại hoá ASXH với 4 mục tiêu cơ bản, trong đó có mục tiêu quan trọng nhất là tạo việc làm để nâng cao thu nhập, sau đó việc làm sẽ mang lại thu nhập an sinh. Biện pháp này được đánh giá là tích cực, nó không chỉ mang lại trách nhiệm về tài chính và tổ chức cho hệ thống ASXH, mà còn mang lại những lợi ích cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, ốm đau, bệnh tật.
Từ năm 1930 đến nay, Chính phủ Thụy Điển đã nhiều lần tiến hành cải cách hệ thống ASXH nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong phân phối an sinh cho người dân. Có thể thấy, hệ thống ASXH của Thuỵ Điển đã đi theo hướng “xã hội dân chủ”. Hệ thống ASXH của Thuỵ Điển chủ yếu dựa trên nguyên tắc bồi thường sự mất mát thu nhập, đảm bảo thu nhập, nhằm khuyến khích năng suất lao động và việc làm tăng lên và thất nghiệp giảm xuống.
Hiện nay, các hình thức ASXH mà Thuỵ Điển áp dụng chủ yếu là: BHHT cho người già; Trợ giúp xã hội; BHTN; Chính sách chăm sóc người mẹ cô đơn; Chế độ nghỉ phép và chăm sóc trẻ.
Hệ thống ASXH của Anh:
Tại Anh, Đạo luật cứu tế người nghèo ra đời từ năm 1601, có nhiệm vụ cung cấp từ thuế địa phương cho các dịch vụ chăm sóc ốm đau, những người nghèo khổ bần cùng, vô gia cư. Trong thế kỷ XVIII và XIX, các dịch vụ y tế của nước Anh bắt đầu phát triển, bệnh viện được đầu tư bằng nguồn vốn tư nhân và vốn quyên góp. Trong thập kỷ XX, Đạo luật bảo hiểm sức khỏe quốc gia ra đời (1911) và tiếp đến là Đạo luật BHXH quốc gia nhằm tái thiết lại hệ thống dịch vụ xã hội sau chiến tranh thế giới thứ II.
Cơ cấu đóng góp vào Quỹ ASXH ở Anh được chia ra làm 5 nhóm sau: (i) Giới chủ doanh nghiệp và người lao động; (ii) Đóng góp của người tự làm chủ; (iii) Đóng góp của những người tình nguyện bảo vệ quyền lợi cho một số lợi ích; (iv) Đóng góp của những người tự làm chủ trên lợi nhuận thuế của họ; (v) Đóng góp của người chủ cung cấp cho người lao động nhiên liệu xe hơi hoặc xe hơi sử dụng riêng.
Riêng những người lao động làm việc ở độ tuổi đã nghỉ hưu thì không phải đóng góp vào quỹ ASXH, nhưng chủ của họ tiếp tục phải đóng góp theo luật định. Chính vì vậy, lợi ích an sinh phụ thuộc vào thanh toán của những người đóng góp như: Người chủ, người thợ, người làm việc nửa ngày cho Quỹ Bảo hiểm quốc gia và Chính phủ cũng tham gia đóng góp vào Quỹ này. Còn những lợi ích ASXH khác thường dành cho những người không đóng góp và được trích từ thuế.
Hệ thống ASXH ở Anh hiện nay bao gồm: BHHT; trợ cấp cho cha mẹ và trẻ em; trợ cấp ốm đau và mất sức lao động; bảo hiểm thất nghiệp; trợ cấp cho những người đang tìm kiếm việc làm.
Hệ thống ASXH của Nhật Bản:
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Nhật Bản nỗ lực duy trì và nâng cao đời sống cho người dân trên cơ sở bảo đảm phúc lợi xã hội và y tế công cộng. Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 quy định: Tất cả các công dân đều có quyền được hưởng cuộc sống với mức tối thiểu về văn hóa và sức khỏe (Điều 25). Đây chính là nền tảng pháp lý quan trọng đầu tiên cho sự hình thành hệ thống chính sách ASXH hiện đại của Nhật Bản.
Về cơ bản, chính sách ASXH của Nhật Bản trải qua 4 giai đoạn: Từ năm 1945 đến 1955: Giai đoạn cứu trợ khẩn cấp, hỗ trợ phát triển hạ tầng; (ii) Từ năm 1955 đến 1975: Phát triển BHYT toàn dân và xây dựng hệ thống lương hưu; (iii) Từ năm 1975 đến cuối thập niên 80: Phát triển ổn định và chú trọng ASXH; (iv) Từ năm 1989 đến nay: Cải cách hệ thống ASXH nhằm ứng phó với suy thoái kinh tế, thách thức về già hóa dân số và mức sinh thấp.
Trong nhiều thập niên qua, chính sách ASXH ở Nhật Bản được xây dựng linh hoạt và là động lực cho tăng trưởng kinh tế cũng như tiến bộ xã hội, tạo thành nét độc đáo của mô hình nhà nước phúc lợi riêng biệt. Về cơ bản, đây là mô hình ASXH có tính phổ cập, dựa vào nguyên tắc phân phối lại thu nhập, trong đó tất cả mọi người dân đều được hưởng trợ giúp tối thiểu nhằm nâng cao mức sống và giảm phân hóa giàu nghèo. Trong mô hình này, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp ASXH thông qua hệ thống bảo hiểm và trợ cấp xã hội.
Như vậy, có thể thấy, ASXH ở Nhật Bản bao gồm 3 bộ phận chính: chăm sóc y tế, hưu trí và phúc lợi xã hội khác. Trong đó, hưu trí là bộ phận chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi tiêu của hệ thống. Hệ thống ASXH đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế Nhật Bản.
Những thành tố cơ bản của hệ thống này là dùng quỹ xã hội để đảm bảo thu nhập cho những người lâm vào tình cảnh đặc biệt; BHYT; bảo đảm phúc lợi cho những người cao tuổi, người tàn tật và trẻ em nhỏ tuổi cần sự chăm sóc thường xuyên; trợ cấp xã hội đối với những người có mức sống thấp hơn mức quy định.
Mặc dù vậy, những thay đổi về cơ cấu dân số, cùng với sự gia tăng tuổi thọ của người già, chi phí hàng năm dành cho y tế tiếp tục gia tăng và có thể dẫn đến mất cân bằng tài chính của các Quỹ Bảo hiểm. Nhằm ứng phó với những thách thức trên, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành cải cách ASXH, bao gồm: Cải cách hệ thống tài chính nhà nước; Có chính sách hợp lý trên thị trường lao động nhằm khuyến khích tạo việc làm và thu hút người lao động; Đối với hệ thống hưu trí, chuyển hoàn toàn sang hệ thống tài khoản cá nhân nhằm hạn chế gánh nặng cho lực lượng lao động; đồng thời, đảm bảo được thu nhập lâu dài cho người nghỉ hưu.
Hệ thống ASXH của Trung Quốc:
Hệ thống ASXH của Trung Quốc ra đời từ năm 1951 với việc ban hành Quy định về bảo hiểm lao động. Trong giai đoạn đầu từ 1951-1978, hệ thống BHXH được vận hành trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (chưa có BHTN). Ở nông thôn, Trung Quốc xây dựng hệ thống y tế cơ sở chăm sóc cho 90% dân số nông thôn lúc đó. Từ năm 1978-2002, cùng với quá trình cải cách mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, Trung Quốc xây dựng các chương trình BHXH dựa trên việc làm và đóng góp. Các chế độ BHTN, thai sản và tai nạn lao động bắt đầu được áp dụng lần lượt vào năm 1986, năm 1995 và năm 1996. Lần lượt trong năm 1998 và năm 1999, Trung Quốc áp dụng BHHT và BHYT cơ bản trên phạm vi toàn quốc.
Từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc lựa chọn mô hình bảo hiểm đa tầng, bao phủ rộng, chế độ thụ hưởng vừa phải và bền vững, đặt mục tiêu bao phủ toàn bộ dân số vào năm 2020, trong đó trọng tâm là hệ thống hưu trí, BHYT và hệ thống hỗ trợ thu nhập tối thiểu. Trải qua quá trình phát triển, mô hình ASXH của Trung Quốc hiện nay dựa trên các trụ cột chính là BHXH (hưu trí, y tế, thất nghiệp, thai sản và tai nạn lao động), trợ giúp và phúc lợi xã hội.
Tuy chưa có một khái niệm thống nhất về ASXH, nhưng hệ thống ASXH chủ yếu của Trung Quốc gồm:
– Hệ thống BHXH: BHHT, BHTN, BHYT, bảo hiểm thai sản, bảo hiểm tai nạn lao động. Nguồn kinh phí để chi trả các chế độ này chủ yếu trên cơ sở đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động.
– Hệ thống phúc lợi xã hội: Phúc lợi xã hội (cứu trợ, cứu tế), trợ cấp công chức, viên chức. Nguồn kinh phí để chi chế độ này chủ yếu từ ngân sách địa phương và hỗ trợ của ngân sách trung ương.
– Hệ thống ưu đãi xã hội: Chế độ đãi ngộ đối với người có công với đất nước. Nguồn kinh phí để chi chế độ này chủ yếu từ ngân sách địa phương và hỗ trợ của ngân sách trung ương.
Chính quyền trung ương và địa phương cùng chia sẻ trách nhiệm đối với quản lý về ASXH. Nhiệm vụ của chính quyền trung ương chủ yếu là đưa ra các quy định, chính sách và mức chuẩn chung trong toàn quốc và cung cấp các trợ giúp tài chính đối với khu vực đặc biệt khó khăn. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về các quy định, chính sách và mức chuẩn tại địa phương; tổ chức thu các khoản đóng góp và chi trả trợ cấp về ASXH.
Tại Trung ương và địa phương, các cơ quan BHXH được thành lập với số cán bộ, nhân viên lên đến trên 100.000 người trong toàn quốc. Nhiệm vụ chính của cơ quan BHXH là: Tiếp nhận đăng ký tham gia bảo hiểm, tổ chức thu đóng bảo hiểm; hạch toán các khoản đóng góp, quản lý tài khoản cá nhân của người tham gia, kiểm tra về tính phù hợp của các yêu cầu, thực hiện các khoản trợ cấp, quản lý Quỹ BHXH. Cơ quan BHXH cũng chịu trách nhiệm trong việc thực hiện thoả thuận về BHXH giữa Trung Quốc và các nước khác.
Hệ thống ASXH của Ấn Độ:
Ở Ấn Độ, Luật về ASXH đã ra đời từ năm 1923. Tiếp theo đó, rất nhiều luật và các quy định pháp lý liên quan đến mô hình ASXH được thiết lập khá sớm và còn hiệu lực cho đến ngày nay. Chẳng hạn như: Luật BHXH quốc gia 1948, Luật Bồi hoàn cho người lao động 1923, Luật Lợi ích thai sản 1961… Những luật này phần lớn là chịu ảnh hưởng từ những quan điểm về ASXH trong thời kỳ thực dân ở Ấn Độ. Tuy nhiên, hệ thống các luật về ASXH này chỉ bao phủ khu vực kinh tế chính thức trong khi phần lớn lao động ở Ấn Độ làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức. Vì thế, trong vài thập kỷ gần đây, Ấn Độ nỗ lực, cải cách mở rộng ASXH sang khu vực phi chính thức. Hiện nay, có khoảng 1/5 lao động trong khu vực phi chính thức của Ấn Độ sống dưới mức nghèo khổ và ít nhất 1/2 dân số nông thôn không có tài khoản ngân hàng. Để cung cấp ASXH cho người dân nông thôn, đặc biệt là BHXH, Ấn Độ đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó nổi bật là BHXH vi mô với nhiều nhà cung cấp khác nhau. Hội Phụ nữ tự làm chủ là tổ chức cung cấp BHXH vi mô lâu đời nhất ở Ấn Độ với bảo hiểm các chế độ BHHT và BHYT.
Hiện nay, Ấn Độ cũng đang dẫn đầu thế giới về bảo hiểm vi mô. Năm 2010, có khoảng 164 triệu người thu nhập thấp tham gia một loại bảo hiểm nào đó, không kể BHYT của Nhà nước. Bên cạnh bảo hiểm vi mô, trong thập kỷ qua, Chính phủ Ấn Độ cũng đưa ra nhiều chương trình bảo hiểm nhân thọ, y tế và hưu trí cho người thu nhập thấp…
Thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong phát triển hệ thống an sinh xã hội
Trong hơn 30 năm thực hiện đổi mới để phát triển đất nước, ASXH luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm nhằm góp phần phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người dân. Hệ thống pháp luật và chính sách ASXH luôn được bổ sung và hoàn thiện để phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Nhờ vậy, các đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách được mở rộng; mức hỗ trợ được nâng lên, nguồn lực đầu tư cho ASXH ngày càng lớn và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong đảm bảo ASXH. Đặc biệt, Việt Nam được Liên Hiệp Quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ, nổi bật là giảm nghèo, tạo việc làm, giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe và trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay gồm 4 nhóm cơ bản:
(1) Nhóm chính sách việc làm đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo: Hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro thông qua tham gia thị trường lao động để có được việc làm tốt, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững;
(2) Nhóm chính sách BHXH: Hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già… thông qua tham gia BHXH để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro trên;
(3) Nhóm chính sách trợ giúp xã hội, bao gồm chính sách trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất;
(4) Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ bản, giúp người dân tiếp cận các dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền thông.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác ASXH toàn dân hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, đó là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhưng tỷ lệ lao động có việc làm không bền vững còn cao. Số lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp còn lớn, chiếm 60% lực lượng lao động có việc làm. Việt Nam giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững.
Những năm gần đây, tỷ lệ tái nghèo bình quân ở mức 5,1%, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh bằng 23% so với tổng số hộ thoát nghèo. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm còn thấp. Đến nay mới có 30% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH… Trong số 11 triệu người cao tuổi, mới có khoảng 5,3 triệu người có chế độ hưu trí, trợ cấp BHXH, hoặc được hưởng tiền mặt hàng tháng. Mức trợ cấp tiền mặt hàng tháng cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn khiêm tốn, chưa đủ để hỗ trợ người thụ hưởng đảm bảo mức sống tối thiểu. Dù mức chuẩn trợ cấp đã nhiều lần được điều chỉnh nhưng đến nay mới ở mức 270.000 đồng/tháng. Chất lượng một số dịch vụ xã hội thiết yếu chưa đáp ứng các yêu cầu phát triển… Những rào cản trên do các yếu tố sau:
– Thách thức về “bẫy thu nhập trung bình”: Việc Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình là một cơ hội, điều kiện quan trọng đối với phát triển hệ thống ASXH giai đoạn 2021 – 2030. Song, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thuộc nhóm thấp và đối diện với những thách thức lớn phải vượt qua về tăng trưởng, phát triển kinh tế – xã hội để không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
Vấn đề đặt ra là phải tập trung nguồn lực và có giải pháp đột phá để duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người, từ đó mới có tiền đề và điều kiện cơ bản để thực hiện một chính sách ASXH tiếp cận dựa trên quyền theo hướng bao phủ toàn dân được Hiến pháp quy định.
– Thách thức về già hóa dân số: Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Đây là một lợi thế rất lớn. Tuy nhiên, từ năm 2017, khi tỷ lệ người cao tuổi đã chiếm 10% dân số cả nước thì Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước có dân số già.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Nếu năm 2010, cứ 11 người Việt Nam mới có 1 người cao tuổi, thì đến năm 2030 cứ 6 người dân sẽ có 1 người cao tuổi. Như vậy, chỉ sau khoảng 15 năm, dân số Việt Nam sẽ chuyển từ giai đoạn dân số trẻ sang giai đoạn dân số già, trong khi Việt Nam vẫn là một nước chưa giàu. Dân số già nhanh sẽ gây sức ép rất lớn đối với chính sách ASXH, khi số đối tượng cần bảo đảm ASXH tăng lên nhanh chóng.
– Thách thức về tác động của biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu, nhất là xu hướng ấm lên của khí hậu toàn cầu và nước biển dâng, sẽ dẫn đến gia tăng tần suất và mức độ cực đoan của các hiện tượng thiên nhiên, như hạn hán, lũ lụt, bão, sóng thần… kéo theo nó là các thảm họa đối với con người, với hoạt động sản xuất…
Việt Nam được dự báo là một trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Khi nước biển dâng lên 1m sẽ ảnh hưởng tới 12% diện tích, 10,5% dân số Việt Nam, có thể làm ngập mặn 7% diện tích đất nông nghiệp, trong đó 60% – 70% diện tích thuộc Đồng bằng sông Cửu Long… kéo theo đó là nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và đối với cả nước. Chuẩn bị và đối phó với biến đổi khí hậu là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong phát triển kinh tế – xã hội, nhất là bảo đảm ASXH.
– Thách thức về hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa là tất yếu khách quan và cơ hội lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế, cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân lực, việc làm, thị trường lao động khu vực và thế giới… Trong bối cảnh đó, quá trình di dân, di chuyển lao động và di chuyển thể nhân theo xu hướng từ nông thôn ra thành thị và hướng ra thị trường quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều vấn đề trong chính sách bảo đảm ASXH.
– Thách thức về cải cách thể chế: Chính sách ASXH phải được hoàn thiện nhằm khắc phục các bất hợp lý hiện nay. Đồng bộ hóa với các luật liên quan khác và nội luật hóa các cam kết quốc tế khi tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương… là một áp lực lớn đặt ra đối với cải cách thể chế, thiết kế chính sách ASXH theo hướng đổi mới trong giai đoạn 2021 – 2030.
– Thách thức về sự mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng của hệ thống dịch vụ: Cùng với quá trình đa dạng hóa ASXH, tăng độ bao phủ ASXH ở Việt Nam cũng sẽ là quá trình gia tăng nhu cầu cung cấp dịch vụ công về ASXH. Trong khi chất lượng đòi hỏi ngày càng cao thì khả năng đáp ứng của hệ thống dịch vụ này còn hạn chế ngay cả trong giai đoạn 2021 – 2030.
Giải pháp hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hệ thống ASXH của một số quốc gia, có thể rút ra một số bài học hữu ích giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống ASXH theo hướng bền vững, cụ thể như:
Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa chủ trương, quan điểm mới của Đảng về ASXH thành cơ chế, chính sách pháp luật, tạo hành lang pháp lý vận hành, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hệ thống ASXH giai đoạn 2021 – 2030.
Trên cơ sở rà soát, đánh giá hệ thống chính sách, pháp luật ASXH hiện hành theo tiêu chí và chuẩn mực quốc tế về tiếp cận ASXH dựa trên quyền, cũng như nhận thức, quan điểm mới của Đảng về ASXH thể hiện trong các nghị quyết của Đảng để bổ sung, sửa đổi các luật về ASXH hiện hành (Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật BHXH, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật…); Tiếp tục nội luật hóa các công ước, cam kết quốc tế liên quan đến ASXH trong quá trình bổ sung, sửa đổi các luật về ASXH hiện hành; Nghiên cứu xây dựng và ban hành một số luật mới về ASXH như: Luật Công tác xã hội, Luật Trợ giúp xã hội… để hình thành đồng bộ, đầy đủ hệ thống luật pháp về ASXH (như là Bộ luật ASXH).
Thứ hai, huy động các nguồn lực bảo đảm ASXH như: Tăng đầu tư của Nhà nước theo kế hoạch năm, trung hạn và dài hạn với mức đầu tư từ 1% – 1,5% GDP/năm; Đẩy mạnh huy động nguồn lực của doanh nghiệp, sự đóng góp của người dân, hỗ trợ quốc tế bảo đảm mức 30% so với tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho ASXH; Phát triển các Quỹ ASXH bền vững trong dài hạn, nhất là Quỹ BHXH, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ Tình thương, Quỹ Trợ giúp xã hội đột xuất…; Đổi mới quản lý và sử dụng các nguồn lực để bảo đảm đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng chương trình tổng thể về ASXH. Chương trình này trên cơ sở tích hợp Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp, việc làm và an toàn lao động; các đề án trợ giúp xã hội hiện nay (Đề án Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng; Đề án Trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; Đề án Trợ giúp người khuyết tật; Đề án Phát triển nghề công tác xã hội). Cùng với đó, phát triển mô hình ASXH đa dạng để đáp ứng các nhu cầu an sinh đa dạng và khả năng đóng góp của các nhóm dân cư khác nhau.
Bên cạnh các chương trình ASXH do Nhà nước cung cấp hoặc điều phối, có thể huy động sự tham gia của doanh nghiệp, các tổ chức khác tham gia. Sự tham gia của xã hội không chỉ dừng ở đóng góp nguồn lực, hỗ trợ hay phối hợp mà có thể trực tiếp cung cấp dịch vụ ASXH.
Chẳng hạn như: Ấn Độ, các tổ chức BHXH vi mô đã tham gia tích cực vào cung cấp BHXH trong bối cảnh Nhà nước chưa đủ sức cung cấp BHXH ở khu vực phi chính thức, ở nông thôn. Điều này giúp hàng chục triệu người được đảm bảo an sinh. Do đó, để huy động nguồn lực, cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các tổ chức khác tham gia cung cấp dịch vụ ASXH Nhà nước cần xây dựng cơ chế, thể chế hóa việc tham gia, một mặt đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp, tổ chức cung cấp ASXH, mặt khác Nhà nước có thể quản lý hoạt động của các đơn vị này, đảm bảo đúng mục đích, đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người tham gia và thụ hưởng ASXH.
Thứ tư, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống cung cấp dịch vụ ASXH, như dịch vụ việc làm, dịch vụ chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội, dịch vụ chi trả, dịch vụ công tác xã hội… phát triển theo hướng chuyên nghiệp và tự chủ; coi trọng chăm sóc đối tượng tại cộng đồng và mở rộng khu vực ngoài Nhà nước (các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp…) tham gia trên cơ sở vận dụng cơ chế thị trường theo quy định của pháp luật, sự ủy thác, đặt hàng của Nhà nước gắn liền với bảo đảm và nâng cao tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả, chất lượng hội nhập và hợp tác quốc tế về ASXH; Tiếp tục tham gia xây dựng các công ước và tiêu chuẩn quốc tế của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động quốc tế, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc, các hiệp định hợp tác đa phương và song phương thế hệ mới liên quan đến ASXH…; Chủ động, tích cực và có trách nhiệm thực hiện các cam kết quốc tế về ASXH; chủ động phản ứng chính sách đối với những tác động không mong muốn trong quá trình hội nhập quốc tế để hạn chế rủi ro cho người dân; Tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính… để tăng thêm nguồn lực cùng Nhà nước bảo đảm ASXH cho người dân.
Bài học từ các nước gợi ý rằng, Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống ASXH đa dạng, đa tầng theo hướng sau:
Tầng thứ nhất, đảm bảo ASXH tối thiểu, hướng tới giảm nghèo và trợ giúp xã hội cho các đối tượng yếu thế. Với người già không có thu nhập và lương hưu, cần cung cấp hưu trí xã hội để đảm bảo cuộc sống.
Tầng thứ hai, dựa trên đóng góp của người lao động và sử dụng lao động, tuy nhiên, có thể nghiên cứu tách BHXH bắt buộc thành 2 bộ phận: Đóng góp xác định của người lao động vào tài khoản BHXH cá nhân và phần đóng góp của người sử dụng lao động được chuyển vào Quỹ BHXH chung.
Tuy nhiên, để thu hút người lao động trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện, Nhà nước cần hỗ trợ một phần phí BHXH, một mặt làm giảm gánh nặng đóng góp, mặt khác phần hỗ trợ này được coi như phần thưởng mà nếu không tham gia thì người lao động không nhận được. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế minh bạch, rõ ràng nhằm khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài Nhà nước vào cung cấp ASXH.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách Bảo hiểm Xã hội;
2. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”;
3. Quyết định số 488/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đổi mới, phát triển TGXH giai đoạn 2017 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030”;
4. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật An sinh xã hội, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội;
6. Hoàng Chí Bảo (2008), Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2006-2015, Kỷ yếu Hội thảo khoa học thuộc Đề tài KX02.02/06-10, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
7. Mai Ngọc Cường (2013), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
8. Hệ thống bảo trợ xã hội ở Nhật Bản, Thông tin khoa học Lao động và Xã hội số 3/2000;
9. Bùi Sỹ Lợi (2015), Kinh nghiệm của các nước về xây dựng pháp luật an sinh xã hội, molisa.gov.vn.
(*) ThS. Trần Văn Kiên – Học viện Ngân hàng.
(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2021.