Nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp, cũng như các nhà đầu tư, các quốc gia thường cho phép các doanh nghiệp lựa chọn Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc gia hoặc Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) khi lập và trình bày báo cáo tài chính. Ở Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn, Bộ Tài chính đã ban hành Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính với những lộ trình cụ thể trong việc áp dụng toàn bộ hay từng phần có điều chỉnh phù hợp với thực tiễn nước ta.
Khái quát về chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
IFRS là chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế được thiết kế và phát triển bởi một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận là Hội đồng Chuẩn mực Kế toán quốc tế (IASB). IFRS ra đời cung cấp một khuôn khổ quốc tế về cách lập và trình bày BCTC cho các công ty đại chúng. IFRS hướng dẫn, diễn giải chung nhất về cách lập BCTC hơn là thiết lập các quy tắc lập báo cáo ngành cụ thể. Đến nay, IFRS đã trở thành ngôn ngữ kế toán chung phổ biến nhất trên toàn cầu.
Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới, các quốc gia nên ưu tiên chấp nhận IFRS hơn là xây dựng các thông lệ kế toán theo điều kiện của từng nước, bởi các chuẩn mực này được quốc tế chấp nhận rộng rãi và được vận dụng linh hoạt trong việc hợp nhất những thông lệ tốt nhất trên thế giới. Những năm qua, Ngân hàng Thế giới đã chấp nhận IFRS làm cơ sở cho việc trình bày các BCTC được đệ trình của những khách hàng sử dụng các khoản vay và tín dụng của Ngân hàng này.
Lợi ích của việc áp dụng IFRS tại Việt Nam
Trong bối cảnh kế toán được xem là một ngôn ngữ kinh doanh toàn cầu thì việc cho phép áp dụng IFRS sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước các nước nói chung và Việt Nam nói riêng cũng như các chủ sở hữu, nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có công cụ, để đánh giá và so sánh thông tin tài chính giữa các đơn vị theo cùng một ngôn ngữ, chuẩn mực chung để đưa ra các quyết định kinh tế một cách phù hợp.
Việc áp dụng IFRS sẽ tạo điều kiện để (DN) đủ điều kiện niêm yết trên thị trường quốc tế hoặc nhận được các khoản vay ưu đãi từ các định chế tài chính quốc tế như: Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á. Áp dụng IFRS sẽ tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho việc kế toán nhiều loại công cụ tài chính, tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý.
Việc xây dựng các quy định cụ thể về công cụ tài chính, giao dịch phái sinh tác động mạnh mẽ đến cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Đối với thị trường sơ cấp, các ngân hàng và tổ chức tài chính có căn cứ pháp lý rõ ràng để hạch toán các loại công cụ tài chính được phát hành mới như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
Đối với thị trường thứ cấp, hệ thống chuẩn mực BCTC về công cụ tài chính được ban hành đầy đủ sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư vào các công cụ tài chính phái sinh như một loại chứng khoán trên sàn giao dịch tập trung. Đặc biệt, việc áp dụng IFRS là một trong những yếu tố để nâng hạng cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Việc áp dụng IFRS sẽ nâng cao tính minh bạch và trung thực của BCTC, giúp bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, do IFRS yêu cầu các khoản mục của BCTC phải được ghi nhận và trình bày theo bản chất hơn là hình thức hay tên gọi của giao dịch, qua đó giúp giảm thiểu tác động của hình thức giao dịch đến phương pháp kế toán, từ đó làm tăng khả năng so sánh giữa BCTC của DN tại Việt Nam với các DN khác trong khu vực và thế giới.
IFRS yêu cầu trình bày và thuyết minh chi tiết về những rủi ro mà DN có thể gặp phải như rủi ro kinh doanh, rủi ro tín dụng, rủi ro chính sách… nhằm cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho các nhà đầu tư, chủ nợ khi quyết định đầu tư vào DN. IFRS cũng yêu cầu áp dụng nhiều mô hình tài chính để xác định giá trị tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý, giá trị có thể thu hồi, giá trị sử dụng, giá trị thời gian, giá trị nội tại…
Vì vậy, thông tin tài chính được cung cấp trên nền tảng IFRS sẽ giúp DN Việt Nam đánh giá được tình hình tài chính tại thời điểm báo cáo, cũng như giúp ban giám đốc có được những thông tin phục vụ tốt hơn cho việc dự báo kết quả hoạt động và dòng tiền trong tương lai; từ đó có căn cứ và công cụ để thực hiện công tác quản trị, điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn.
Khi áp dụng IFRS, các DN nói chung sẽ phát sinh một số chi phí đầu tư ban đầu phục vụ cho việc đào tạo lại nguồn nhân lực, cũng như thay đổi hệ thống thông tin, phần mềm kế toán. Mặc dù, các chi phí đầu tư ban đầu là tương đối lớn nhưng xét về lâu dài thì những lợi ích từ việc minh bạch hóa thông tin, thu hút nhà đầu tư không những sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn các chi phí ban đầu mà còn giúp DN phát triển ổn định, bền vững.
Lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam
Ngày 16/3/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án “Áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam” nhằm hướng tới áp dụng IFRS và chuẩn mực BCTC Việt Nam mới (VFRS) theo hướng IFRS từ sau năm 2025. Theo đó, lộ trình áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam gồm 3 giai đoạn:
– Giai đoạn chuẩn bị (2020-2021): Bộ Tài chính chuẩn bị các điều kiện cần thiết như: Công bố bản dịch IFRS ra tiếng Việt; Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng IFRS; Xây dựng cơ chế tài chính liên quan; Đào tạo nguồn nhân lực, quy trình triển khai cho các DN.
– Giai đoạn tự nguyện (2022-2025): Đối với BCTC hợp nhất, các DN sau có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS tại Việt Nam để lập BCTC hợp nhất: Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước quy mô lớn hoặc có các khoản vay được tài trợ bởi các định chế tài chính quốc tế; Công ty mẹ là công ty niêm yết; Công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; Các công ty mẹ khác nhu cầu và đủ nguồn lực tự nguyện áp dụng IFRS.
Đối với BCTC riêng, các DN có 100% FDI là công ty con của công ty mẹ ở nước ngoài có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS để lập BCTC riêng.
– Giai đoạn bắt buộc (sau 2025): Đối với BCTC hợp nhất: Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS của giai đoạn 1, Bộ Tài chính căn cứ nhu cầu, khả năng sẵn sàng của các DN và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm bắt buộc áp dụng IFRS để lập BCTC hợp nhất cho từng nhóm DN thuộc các đối tượng cụ thể: Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước; Công ty mẹ là công ty niêm yết; Công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; Công ty mẹ quy mô lớn khác. Các công ty mẹ khác không thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng nêu trên có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS để lập BCTC hợp nhất.
Đối với BCTC riêng: Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS của giai đoạn 1, Bộ Tài chính căn cứ nhu cầu, khả năng sẵn sàng của các DN, pháp luật có liên quan và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm áp dụng bắt buộc hoặc áp dụng tự nguyện IFRS để lập BCTC riêng cho từng nhóm đối tượng, đảm bảo tính hiệu quả và khả thi.
Cách thức áp dụng IFRS tại Việt Nam
DN thuộc đối tượng áp dụng IFRS phải áp dụng tất cả quy định của IFRS đã có hiệu lực tại cùng một thời điểm. Khi IASB có sự thay đổi, bổ sung IFRS thì Việt Nam sẽ áp dụng chậm nhất sau 3 năm kể từ thời điểm các sửa đổi, bổ sung IFRS có hiệu lực. DN tự nguyện hay bắt buộc áp dụng IFRS lập BCTC hợp nhất hoặc BCTC riêng không phải lập BCTC theo VAS, chỉ phải lập duy nhất một BCTC theo IFRS để công bố theo pháp luật Việt Nam.
Đối với DN nhỏ và vừa, không thuộc các đối tượng cụ thể bắt buộc áp dụng IFRS, sẽ áp dụng Chuẩn mực BCTC Việt Nam mới (VFRS) có điều chỉnh phù hợp với IFRS và thông lệ quốc tế. Riêng DN siêu nhỏ không có nhu cầu và điều kiện áp dụng IFRS và VFRS sẽ có hướng dẫn riêng của Bộ tài chính.
Trước ngày 31/12/2024, Bộ Tài chính sẽ ban hành mới Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam theo hướng phù hợp với IFRS, yêu cầu quản lý, điều hành của Việt Nam và nhu cầu của DN. Sau đó, Bộ Tài chính thường xuyên rà soát lại VAS, cập nhật những thay đổi của IFRS để đảm bảo VAS phù hợp ở mức độ cao nhất với thông lệ quốc tế.
Khó khăn, thách thức khi áp dụng IFRS ở Việt Nam
Việc áp dụng IFRS tại Việt Nam gặp một số khó khăn gồm:
Một là, thị trường tài chính và thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Để đáp ứng nguyên tắc giá trị hợp lý của IFRS, thị trường cần phải hoạt động hiệu quả, cung cấp được những số liệu, thông số tài chính đáng tin cậy. Cùng với đó, IFRS có mục tiêu thể hiện, ghi lại các giao dịch tài chính thuộc nền kinh tế phát triển có nhiều công cụ tài chính phức tạp. Trong khi đó, thị trường tài chính và thị trường vốn Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa đầy đủ các công cụ tài chính. Điều này dẫn đến khó khăn khi áp dụng IFRS.
Hai là, các DN không muốn công khai tình hình tài chính.
Điều kiện khi áp dụng các IFRS là các thông tin tài chính của DN sẽ chính xác hơn, tin cậy hơn với việc nâng cao trách nhiệm giải trình của DN. Điều này khiến DN hoạt động không hiệu quả sẽ khó lòng có được BCTC khả quan như hiện tại. Các DN hoạt động kém có tâm lý sợ ảnh hưởng đến giá trị chứng khoán, xếp hạng và duy trì điều kiện được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Ba là, thiếu đội ngũ nhân lực.
Áp dụng IFRS tại Việt Nam cần có đội ngũ nhân lực có trình độ, bởi có sự chênh lệch giữa VAS và IFRS. Tuy nhiên, nguồn nhân lực được đào tạo về các chuẩn mực kế toán này tại Việt Nam còn hạn chế. Việt Nam đang thiếu hụt lớn nguồn nhân lực có kỹ năng, nghiệp vụ kế toán và áp dụng IFRS.
Bốn là, bất đồng ngôn ngữ.
IFRS được soạn thảo bằng tiếng Anh, trong khi hầu hết kế toán viên, kiểm toán viên, nhà đầu tư và DN Việt Nam còn hạn chế tiếng Anh. Vì vậy, việc hiểu chính xác thuật ngữ, cập nhật tin tức và áp dụng IFRS ở Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn.
Năm là, sự chồng chéo của các văn bản quy phạm pháp luật.
Hiện nay, Việt Nam có 3 văn bản quy phạm pháp luật có tác động đến công tác tài chính của DN, gồm: Chính sách thuế, chuẩn mực báo cáo tài chính và cơ chế tài chính. Điều này tạo ra sự chưa nhất quán và chồng chéo trong việc áp dụng. Do đó, áp dụng IFRS ở Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn.
Chuẩn bị điều kiện chuyển đổi từ VAS sang IFRS
Để áp dụng IFRS tại Việt Nam, cần rà soát, kiểm tra và thiết lập lại hệ thống, quy trình cũng như hạ tầng của DN để đảm bảo tính trung thực của BCTC và đáp ứng các quy định của IFRS; Rà soát lực lượng nhân sự về kế toán, tài chính, cũng như quản lý để có được kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo kiến thức nghiệp vụ kế toán phù hợp với tình hình mới.
Bản thân đội ngũ nhân sự làm công tác kế toán cần chủ động học hỏi, nghiên cứu và tích lũy kiến thức, kỹ năng, tiếng Anh, IFRS thông qua các tài liệu của Bộ Tài chính, IFRS và các trung tâm đào tạo, hiệp hội ngành nghề uy tín; Cần nắm được sự khác biệt giữa VAS và IFRS để áp dụng đúng và chính xác, cũng như hiểu được những thay đổi trong kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của DN.
Nhân sự làm công tác kế toán cần trao đổi nghiệp vụ, kiến thức kế toán từ các công ty kiểm toán lớn hiện nay như BIG4; Tham gia học tập và tích lũy kiến thức về IFRS tại các trung tâm đào tạo uy tín; Học tập các chứng chỉ quốc tế như: chứng chỉ CertIFR hay Chứng chỉ Kế toán Công chứng Anh Quốc (ACCA) để chuẩn bị kiến thức, tiếng Anh cần thiết để đáp ứng công việc, thăng tiến trong sự nghiệp.
Kết luận
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần phối hợp với các hội nghề nghiệp, các tổ chức khác hỗ trợ, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các DN áp dụng IFRS thông qua những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn để IFRS nhanh chóng được triển khai trong thực hiện tại các DN.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2015), Luật Kế toán;
2. Bộ Tài chính (2020), Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án “Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam”;
3. Nguyễn Thị Phương Thanh, Nguyễn Trần Khánh (2020), Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế: Kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới. Tạp chí Tài chính Kỳ 2 – Tháng 7/2020.
*ThS. Nguyễn Khánh Thu Hằng – Trường Đại học Duy Tân.
**Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2021.