Sau kỳ điều chỉnh hạ giá USD mua vào của Ngân hàng Nhà nước xuống mức 22.750 VND/USD với hiệu lực từ ngày 11/8, tỷ giá USD/VND tiếp tục vận động theo xu hướng giảm cho đến nay.
Tại thời điểm đầu tháng 9/2021, cặp tỷ giá USD/VND giao dịch quanh mốc 22.760 – 22.770 VND/USD, đồng thời là mức thấp nhất trong vòng vài năm trở lại đây. Tính riêng từ đầu năm 2021, tiền Đồng đã tăng giá khoảng 1,47% so với đồng bạc xanh.
VND cũng là một trong số ít các loại tiền tệ trong khu vực đã tăng giá so với USD từ đầu năm đến nay. Xu hướng này chủ yếu được thúc đẩy bởi sự thay đổi chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
Ngày 20/7, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian tới, cùng với tiến trình hiện đại hoá khuôn khổ chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cam kết sẽ tiếp tục điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường ngoại tệ và các yếu tố kinh tế, đảm bảo hoạt động ổn định, thông suốt của thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó giải toả các quan ngại của Bộ Tài chính Mỹ.
Thông qua đó, tính từ tháng 6/2021, Ngân hàng Nhà nước đã giảm giá mua vào tổng cộng 375 đồng xuống mốc 22.750 VND/USD và là mức giảm tổng cộng 450 đồng nếu tính từ tháng 11/2019 sau khi trải qua 6 lần điều chỉnh. Xu hướng này cũng được cho là đi ngược với những năm trước đó khi VND thường xuyên trượt giá so với USD. Mức độ cắt giảm cho đến nay cũng được đánh giá là lớn hơn và sớm hơn dự kiến, tiếp tục thể hiện chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động của Ngân hàng Nhà nước.
Khối nghiên cứu toàn cầu của HSBC kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tiếp tục duy trì chính sách điều hành tỷ giá như trong thời gian qua, với mục tiêu giảm tỷ giá mua USD thêm. Theo đó, USD/VND được dự báo sẽ giảm từ 22.750 VND/USD vào cuối quý III/2021 xuống 22.525 VND/USD vào cuối năm 2021.
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu HSBC, bước sang năm 2022, tỷ giá USD/VND sẽ đảo chiều về mức 23.000 VND/USD, trong bối cảnh tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào chậm lại. Đồng VND có thể đứng trước áp lực đối diện với một đồng bạc xanh mạnh hơn trên thị trường quốc tệ và đồng Nhân dân tệ (CNY) suy yếu hơn.
Trong năm 2021, VND đã vượt qua nhiều yếu tố bất lợi như những lo ngại về ảnh hưởng của dịch COVID-19 kéo dài khiến đà tăng trưởng chậm lại, cán cân thương mại thâm hụt và sự khác biệt chính sách tiền tệ với Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Tuy nhiên, những vấn đề này có thể trở nên nổi cộm hơn vào năm sau.
Cụ thể, thặng dư tài khoản vãng lai của Việt Nam thu hẹp xuống còn 0,4 tỷ USD trong quý I/2021 từ mức trung bình hơn 3 tỷ USD mỗi quý trong giai đoạn từ năm 2019-2020 và nhiều khả năng thâm hụt nhẹ trong quý II/2021. Thặng dư thương mại, vốn đã giảm xuống 5,9 tỷ USD trong quý I/2021 từ mức trung bình 6,5 tỷ USD trong giai đoạn từ năm 2019-2020, cũng bộc lộ thiếu hụt của tài khoản vãng lai khi tiếp tục thiếu các khoản thu từ khách du lịch. Thâm hụt dịch vụ và dòng thu nhập chính lên tới 8,2 tỷ USD, trong khi dòng tiền liên quan đến kiều hối đạt 2,6 tỷ USD.
Sự suy giảm trong tài khoản vãng lai có thể sẽ tăng tốc trong tương lai khi cán cân thương mại thâm hụt 1,3 tỷ USD mỗi tháng kể từ tháng 4/2021. Trong khi đó, thâm hụt dịch vụ lớn hơn là hậu quả trực tiếp của việc mất doanh thu du lịch. Trước khi COVID-19 bùng nổ, nguồn thu từ du lịch ròng (5-6 tỷ USD) là quan trọng để bù đắp thâm hụt do giao thông vận tải (4-5 tỷ USD) và thâm hụt liên quan đến dịch vụ khác (3-4 tỷ USD).
Về dòng vốn đầu tư nước ngoài, các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ trước đến nay là nguồn chính của dòng vốn ngoại hối (5,9% GDP). Tuy nhiên, dòng tiền này gần đây đang chậm lại, với dữ liệu hàng tháng cho các khoản đầu tư đã thực hiện cho thấy sự sụt giảm từ mức trung bình là 1,8 tỷ USD trong giai đoạn từ tháng 4 – 12/2020, xuống còn 1,6 tỷ USD trong giai đoạn từ tháng 4 – 7/2021. Đối với dòng vốn danh mục đầu tư, với việc hạ dự báo tăng trưởng, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng trị giá 1,5 tỷ USD trong quý I/2020-quý I/2021, với rủi ro là việc rút các dòng vốn danh mục đầu tư này có thể gia tăng trong tương lai.
Trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến hết sức phức tạp, nền kinh tế đứng trước nhiều thách thức trong quá trình phục hồi, trong đó doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng kịch bản hoạt động và hoạch định chiến lược kinh doanh, cụ thể:
Thứ nhất, việc giãn cách xã hội kéo dài cùng với những quy định chặt chẽ trong phòng chống dịch khiến nhiều doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, trong khi đó chi phí duy trì sản xuất tăng cao. Điều này gây ảnh hưởng đặc biệt đến vấn đề doanh thu và dòng tiền bị gián đoạn.
Thứ hai, khó khăn trong việc duy trì nhân công, lực lượng lao động trong và sau dịch. Người lao động chịu ảnh hưởng nặng nề trong suốt thời gian dịch bệnh, và sẽ gặp nhiều khó khăn khi quay trở lại làm việc khi dịch bệnh được kiểm soát. Tương tự như vấn đề mà nhiều quốc gia khác đã gặp phải, doanh nghiệp sẽ đứng trước nhiều thách thức trong việc thu hút cũng như duy trì các nguồn lợi cho người lao động. Nếu các vấn đề này không được giải quyết, năng lực sản xuất khó có thể quay trở lại giai đoạn trước dịch.
Thứ ba, áp lực lạm phát leo thang, đặc biệt ở giá cả đầu vào cũng đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Chi phí vận hành tăng, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, vô hình chung sẽ tạo nhiều áp lực lên giá cả cung ứng nguyên vật liệu, từ đó cũng tạo ra nhiều thách thức đặc biệt với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực có tính cạnh tranh cao và khó tăng giá cả đầu ra.
Đứng trước những khó khăn kể trên, các doanh nghiệp cần phải chủ động trong vấn đề xây dựng các kịch bản đa dạng với từng tình huống. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần đặc biệt chú trọng vấn đề phòng vệ rủi ro, trong đó có rủi ro về dòng tiền, rủi ro về lãi suất và tỷ giá thông qua các sản phẩm phòng vệ rủi ro, nhằm nắm thế chủ động trong việc dự phòng và ổn định tính thanh khoản, đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thông suốt.
(*) Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam